Thiết kế JDS Asuka (ASE-6102)

Thân tàu

Toàn cảnh JS Asuka (ASE-6102) nhìn từ trên không

Nhìn bề ngoài, JS Asuka có thiết kế thủy động lực học hoàn toàn khác so với các thiết kế tàu chiến Nhật Bản từng đóng trước đó. Con tàu có hình dáng thon dài đặc trưng vươn xa tới mũi tàu dạng bán trụ, mũi tàu hình nêm và đuôi tàu có mặt cắt thẳng đứng phía sau.

Thân tàu được chia thành 15 khoang kín nước, phần thân tàu phía dưới nước được trang bị vây ổn định nhằm làm tăng độ ổn định cho tàu trong điều kiện di chuyển tốc độ cao. Các đường viền thép dọc vỏ tàu được thiết kế nhằm giảm biên độ va đập của sóng biển vào mạng tàu và lườn tàu, đồng thời giảm ma sát của nước biển khi tàu chuyển động.

Kết cấu cầu tàu được chia làm 4 phần, trên cùng khu vực lắp đặt thử nghiệm các loại radar mới. Cấu trúc thượng tầng của tàu được làm bằng hợp kim nhôm, gia cố thêm nhựa thủy tinh để làm giảm khối lượng, cột buồm được thiết kế thẳng đứng để phù hợp với điều kiện thời tiết khắc nghiệt của mùa đông Nhật Bản.

Hệ thống động lực

Động cơ tuốc bin khí GE LM2500IEC

JS Asuka được trang bị hệ thống động lực kết hợp tuốc bin khí-điện và tuốc bin khí (COGLAG) bao gồm: 2 động cơ tuốc bin khí LM2500IEC do GE Marine Solutions sản xuất, 1 động cơ điện, 1 máy phát điện diesel S12U (1,8 MW) và 2 máy phát điện tuốc bin khí IM-450 công suất 450 kW. Các động cơ này kết nối với nhau thông qua 3 hộp số và 2 bộ ly hợp, truyền động ra 2 chân vịt 5 lá cung cấp công suất đầu ra tổng cộng 43.000 mã lực càng.

Sự kết hợp theo cấu hình COGLAG giúp tiết kiệm nhiên liệu, giảm tối đa tiếng ồn khi hoạt động, đồng thời, giảm chi phí, kéo dài thời gian giữa 2 lần bảo dưỡng. Hai động cơ tuốc bin khí của tàu có khả năng chuyển từ trạng thái nguội sang trạng thái công suất cực đại trong vòng 15 phút. Ngoài ra, tàu còn được lắp đặt bộ tản nhiệt tiên tiến giúp giảm đối đa bức xạ hồng ngoại khi hoạt động, nâng cao khả năng tránh các biện pháp dò tìm bằng hồng ngoại của đối phương. Hệ thống động lực này giúp tàu đạt tốc độ tối đa đạt 27 hải lý trên giờ, phạm vi hoạt động 6.000 hải lý, tốc độ hành trình 18 hải lý trên giờ, tàu có khả năng hoạt động liên tục 50 ngày trên biển.

Hệ thống động lực COGLAG có thời gian hoạt động tới 30.000 giờ trước khi cần đại tu. Để đảm bảo cho các động cơ này hoạt động hiệu quả, những binh sĩ làm việc dưới khoang máy của tàu phải luôn túc trực 24/24 không lúc nào ngơi việc dù toàn bộ hệ thống trên tàu đều được điều khiển, kiểm soát và giám sát một cách hoàn toàn tự động. Làm việc trong môi trường có tiếng ồn lớn yêu cầu những binh sĩ làm việc trong phòng máy trên tàu luôn phải mang theo nút bịt tay để tránh thính giác của mình bị ảnh hưởng, tuy nhiên nút bịt tay này cũng chỉ hạn chế được phần nào tiếng ồn, sau một thời gian dài làm việc trong phòng máy trên tàu phần lớn các binh sĩ đều bị lãng tai dần.

Hầu hết trang thiết bị trên tàu kể cả trong khoang máy cũng đều được tự động hóa và điều khiển qua máy tính hoàn toàn. Hệ thống giám sát sẽ theo dõi sát sao các thông số của hệ thống động cơ, đưa ra các cảnh báo kịp thời để các binh sĩ khắc phục, trong trường hợp một trong các động cơ gặp sự cố, bộ ly hợp cho phép ngắt hoạt động của động cơ để tiến hành sửa chữa mà không ảnh hưởng đến khả năng hoạt động của tàu. Dù được tự động hóa khá nhiều, tuy nhiên công việc chính của những binh sĩ kỹ thuật lại là bảo dưỡng các thiết bị trên tàu để đảm bảo chúng hoạt động với hiệu suất cao nhất.

Bảo dưỡng các chi tiết nhỏ là công việc khó khăn hơn cả dù không cần phải chui rúc vào những góc nóng nực chật hẹp của khoang máy nhưng các binh sĩ lại phải đảm bảo được độ chính xác cao và yêu cầu thêm cả sự khéo léo nữa. Các chi tiết nhỏ trên tàu có thể là các hệ thống cảm biến, các hệ thống chíp điều khiển của các thiết bị máy tính.